VĂN HÓA HỌC TẬP SỐ KẾT NỐI CỘNG ĐỒNG VÀ LAN TỎA TRI THỨC

Các tác giả

  • Nguyễn Hải Long , Nguyễn Quốc Duy

DOI:

https://doi.org/10.59266/houjs.2025.759

Từ khóa:

Văn hóa học tập số, cộng đồng học tập, lan tỏa tri thức, chuyển đổi số, học tập suốt đời, công dân số, hợp tác số

Tóm tắt

Trong bối cảnh chuyển đổi số và sự bùng nổ của Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư, văn hóa học tập số có vai trò như một động lực then chốt, không chỉ định hình lại cách thức cá nhân tiếp thu tri thức mà còn là cách các cộng đồng tương tác và lan tỏa tri thức một cách hiệu quả. Bài viết này phân tích một cách hệ thống các cơ chế mà văn hóa học tập số tạo điều kiện thuận lợi cho việc kết nối cộng đồng, thúc đẩy hợp tác và đồng kiến tạo tri thức, từ đó mở rộng phạm vi và tốc độ lan tỏa thông tin. Đồng thời, bài viết cũng đánh giá thực trạng phát triển văn hóa học tập số tại Việt Nam, nhận diện những cơ hội và thách thức đặc thù. Kết quả nghiên cứu cho thấy, việc nuôi dưỡng văn hóa học tập số là một chiến lược phát triển quốc gia, góp phần xây dựng một xã hội học tập linh hoạt, bền vững, giảm thiểu khoảng cách số và nâng cao năng lực cạnh tranh trong kỷ nguyên tri thức. Từ đó, đề xuất một khung giải pháp đa chiều nhằm thúc đẩy quá trình này tại Việt Nam.

Tài liệu tham khảo

[1]. Bộ Chính trị. (2019). Nghị quyết số 52- NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

[2]. Bộ Khoa học và Công nghệ. (2022). Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030.

[3]. Bộ Thông tin và Truyền thông. (2023). Sách trắng Công nghệ thông tin và Truyền thông Việt Nam 2022. Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông.

[4]. Bùi Thị Mai Hương. (2023). Chuyển đổi số trong giáo dục đại học ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp. Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, 39(1), 12-23.

[5]. Dweck, C. S. (2006). Mindset: The New Psychology of Success. Random House.

[6]. Ferrari, A. (2013). DigComp: A Framework for Developing and Understanding Digital Competence in Europe. European Commission, Joint Research Centre.

[7]. Knowles, M. S. (1975). Self-Directed Learning: A Guide for Learners and Teachers. Association Press.

[8]. Kruzmetra, Z., Bite, D., & Kronberga, G. (2016). Cultural environment as a potential for society renewal, International Journal of Innovation and Economic Development, 2(1), 7-14.

[9]. Nguyễn Thị Lan Hương. (2022). Phát triển năng lực số cho người dân trong bối cảnh chuyển đổi số ở Việt Nam. Tạp chí Khoa học Xã hội, 56(3), 45-58.

[10]. Nguyễn Xuân Hoài. (2023). Thách thức và giải pháp đảm bảo an toàn thông tin trong giáo dục trực tuyến tại Việt Nam. Tạp chí Khoa học và Công nghệ (Đại học Thái Nguyên), 231(03), 11-18.

[11]. Organisation for Economic Co- operation and Development (OECD). (2016). Skills for a Digital World. OECD Publishing.

[12]. Schwab, K. (2016). The Fourth Industrial Revolution. Crown Business.

[13]. Siemens, G. (2005). Connectivism: A learning theory for the digital age. International Journal of Instructional Technology and Distance Learning, 2(1), 3-10.

[14]. Thủ tướng Chính phủ. (2020a). Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số Quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.

[15]. Thủ tướng Chính phủ. (2021a). Quyết định số 1373/QĐ-TTg ngày 30/7/2021 phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2021-2030”.

[16]. Trần Khánh Dư. (2020). Thúc đẩy học tập suốt đời trong kỷ nguyên số tại Việt Nam. Tạp chí Giáo dục, 4(475), 25-30.

[17]. UNESCO. (2015). Rethinking Education: Towards a global common good?. UNESCO Publishing.

[18]. UNESCO. (2021a). Futures of Education: Learning to Become. UNESCO Publishing.

[19]. Wenger, E. (1998). Communities of Practice: Learning, Meaning, and Identity. Cambridge University Press.

Tải xuống

Loading...