CHUYỂN ĐỔI SỐ VÀ TỰ CHỦ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: THỰC HIỆN NGHỊ SỐ 71-NQ/TW TẠI CÁC TRƯỜNG ĐÀO TẠO VĂN HÓA – NGHỆ THUẬT THEO HƯỚNG QUẢN TRỊ HIỆN ĐẠI VÀ NGHIÊN CỨU LIÊN NGÀNH
DOI:
https://doi.org/10.59266/houjs.2025.852Từ khóa:
chuyển đổi số, nghị quyết số 71-NQ/TW, nghiên cứu liên ngành, tự chủ đại học, văn hóa - nghệ thuậtTóm tắt
Trong bối cảnh triển khai Nghị số 71-NQ/TW về tự chủ, các trường đại học đào tạo Văn hóa – Nghệ thuật của Việt Nam đang đứng trước cả cơ hội và thách thức trong đổi mới quản trị và nâng cao chất lượng đào tạo. Bài viết phân tích cơ sở lý luận, kinh nghiệm quốc tế về tự chủ gắn với chuyển đổi số, đồng thời đánh giá thực trạng ở Việt Nam dựa trên báo cáo của Bộ Nội vụ và Bộ Giáo dục & Đào tạo. Kết quả cho thấy dù 97,4% cơ sở công lập đã thành lập hội đồng trường, song mức độ tự chủ tài chính còn hạn chế; đặc biệt, khối Văn hóa – Nghệ thuật thiếu hạ tầng số, nhân lực công nghệ và mô hình quản trị liên ngành. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất giải pháp: hoàn thiện thể chế và cơ chế đặt hàng; đổi mới đào tạo tích hợp công nghệ số và nghiên cứu liên ngành; phát triển năng lực số cho giảng viên; xây dựng mô hình quản trị dựa trên dữ liệu; tăng cường hợp tác quốc tế và liên kết với doanh nghiệp sáng tạo.
Tài liệu tham khảo
[1]. Bộ Chính trị. (2023). Nghị quyết số 71-NQ/TW về đẩy mạnh tự chủ đại học. Hà Nội. Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2018). Luật Giáo dục đại học (sửa đổi, bổ sung). Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.
[2]. Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2019). Nghị định 99/2019/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục đại học. Hà Nội.
[3]. Bộ Nội vụ. (2025). Báo cáo tổng hợp về thực hiện tự chủ đại học tại Việt Nam. Hà Nội.
[4]. Bleiklie, I., & Kogan, M. (2007). Organization and governance of universities. Higher Education Policy, 20(4), 477-493.
[5]. Bùi Anh Tuấn, và cộng sự. (2023). Tự chủ đại học ở Việt Nam: Kết quả, hạn chế và một số vấn đề đặt ra. Đại học Ngoại thương.
[6]. Đỗ Hùng Anh và cộng sự (2021). Ứng dụng công nghệ Thực tại ảo trong giảng dạy các môn học chuyên ngành thiết kế đồ hoạ. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh, (số 53).
[7]. Estermann, T., & Nokkala, T. (2009). University autonomy in Europe I: Exploratory study. Brussels: EUA.
[8]. Estermann, T., Gaebel, M., & Müller, S. (2020). Universities going digital: Are we ready? Brussels: EUA.
[9]. Fielden, J. (2008). Global trends in university governance. Washington, DC: World Bank.
[10]. Neave, G., & van Vught, F. (1991). Prometheus bound: The changing relationship between government and higher education in Western Europe. Oxford: Pergamon.
[11]. Nguyễn Ngọc Vũ. (2022). Đổi mới cơ chế hoạt động và tài chính của các cơ sở giáo dục đại học công lập trong bối cảnh tự chủ. Tạp chí Khoa học Đại học Đà Nẵng, 17(2).
[12]. Smith, J. & Peters, L. (2020). Digital Arts Education in the Creative Economy. Routledge
[13]. Trịnh Thị Huyền (2020). Giải pháp phát triển năng lực sáng tạo cho sinh viên ngành thiết kế mỹ thuật ứng dụng trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0. Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định (số 36).
[14]. UNESCO. (2021). Digital learning: Addressing the challenges of the COVID-19 pandemic. Paris: UNESCO Publishing.