KẾT HỢP VIẾT TAY VÀ SỬ DỤNG BÀN PHÍM TRONG DẠY VÀ HỌC CHỮ HÁN THỜI ĐẠI SỐ HÓA
DOI:
https://doi.org/10.59266/houjs.2025.990Từ khóa:
chữ Hán viết tay, chữ viết kỹ thuật số, công nghệ số, nghệ thuật thư pháp, phương pháp giảng dạyTóm tắt
Chữ Hán, là một trong những hệ thống chữ viết cổ xưa nhất thế giới, với lịch sử khoảng 5000 năm. Với người học tiếng Trung Quốc, chữ Hán có thể coi là chìa khóa để người học có thể tìm hiểu ngôn ngữ, giá trị văn hóa, triết học và lịch sử của Trung Quốc. Tuy nhiên, với sự bùng nổ của internet, thiết bị di động và các công cụ kỹ thuật số, việc dạy và học chữ Hán đối mặt với sự phân hóa giữa viết tay truyền thống và gõ bàn phím hiện đại. Gõ bàn phím mang lại tốc độ và tiện lợi, giúp tiết kiệm thời gian ghi chép và gợi ý chữ từ âm thanh, nhưng dễ dẫn đến quên nét, sai thứ tự nét hoặc cấu trúc chữ không đều do ít luyện tập. Ngược lại, viết tay củng cố trí nhớ sâu và cảm nhận thẩm mỹ, song lại tốn thời gian và kém linh hoạt trong giao tiếp hàng ngày. Nghiên cứu này tập trung phân tích thách thức từ sự phân hóa ấy, đồng thời đề xuất mô hình kết hợp hài hòa giữa viết tay và bàn phím: điều chỉnh mục tiêu dạy học, đổi mới phương pháp giảng dạy và cải cách hệ thống đánh giá. Ưu tiên việc hiểu và vận dụng, cân bằng giữa truyền thống và thời đại, nhằm giải quyết những thách thức của thời đại “chữ viết số” và bồi dưỡng năng lực đọc - viết chữ Hán toàn diện cho người học.
Tài liệu tham khảo
[1]. Phạm Nữ Vân Anh. (2022). Tích hợp công nghệ trong giảng dạy ngôn ngữ. Tạp chí Khoa học Ngoại ngữ, (71).
[2]. Trịnh Thị Diệu Huyền. (2024). Giải pháp nâng cao chất lượng học chữ Hán cho sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Journal of Educational Equipment: Applied Research, 1(322).
[3]. Vũ Thị Minh Thanh. (2025). Đánh giá thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy tiếng Trung Quốc tại Học viện An ninh nhân dân. Tạp chí Tâm lý - Giáo dục, 31(1).
[4]. Craik, F. I. M., & Lockhart, R. S. (1972). Levels of processing: A framework for memory research. Journal of Verbal Learning and Verbal Behavior, 11(6), 671-684.
[5]. Krashen, S. (1985). The Input Hypothesis: Issues and implications. Addison-Wesley Longman.
[6]. Paivio, A. (1986). Mental representations: A dual coding approach. Oxford University Press.
[7]. 陈树民. (2010). “提笔忘字”: 中国传统的汉字教学遇到时代的挑战. 江苏教育, (21).
[8]. 储诚志. (2024). 续论国际中文教育“ 电写为主,笔写为辅”的教学转型-- 澄清几个误解和疑虑. 云南师范大学学报(对外汉语教学与研究版), (5). https://doi.org/10.3969/j.issn.1672- 1306.2024.05.002
[9]. 陆俭明. (2024). 电打汉字开路,笔写汉字跟进--革新国际中文教育中的汉字教学模式. 云南师范大学学报:对外汉语教学与研究, (4). https://doi.org/10.3969/j.issn.1672- 1306.2024.04.002
[10]. 严峻. (2025). 从“执笔”到“ 触屏”: 电写时代的汉字教学创新与实践. 语言教学与研究, (3). https://doi.org/10.3969/j.issn.0257- 9448.2025.03.013