CHIẾN LƯỢC XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP SỐ BỀN VỮNG: PHÂN TÍCH VÀ SO SÁNH CHÍNH SÁCH VIỆT NAM VÀ CÁC MÔ HÌNH QUỐC TẾ TIÊU BIỂU
DOI:
https://doi.org/10.59266/houjs.2025.795Từ khóa:
xã hội học tập số, chính sách giáo dục, phát triển bền vững, chuyển đổi sốTóm tắt
Trong bối cảnh Cách mạng 4.0, xây dựng xã hội học tập số (XHHTS) bền vững là một chiến lược trọng tâm toàn cầu, đòi hỏi sự cân bằng giữa công nghệ, công bằng và phát triển con người. Bài viết này sử dụng phương pháp phân tích chính sách so sánh định tính để đối chiếu chính sách XHHTS của Việt Nam với ba mô hình quốc tế tiêu biểu: Phần Lan (trọng tâm sư phạm, công bằng), Trung Quốc (trọng tâm Trí tuệ Nhân tạo và quản lý nhà nước) và Singapore (trọng tâm kỹ năng, dữ liệu và hệ thống). Kết quả cho thấy chính sách Việt Nam có ưu thế về cam kết chính trị và đầu tư hạ tầng nhưng còn tồn tại khoảng trống đáng kể về chiều sâu sư phạm, công bằng tiếp cận và hệ sinh thái học liệu mở. Dựa trên đó, bài viết đề xuất các khuyến nghị chiến lược nhằm giúp Việt Nam xây dựng một XHHTS bền vững và bao trùm hơn.
Tài liệu tham khảo
[1]. Chính phủ Việt Nam. (2020). Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.
[2]. Chính phủ Việt Nam. (2022). Quyết định số 131/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo giai đoạn 2022-2025, định hướng đến năm 2030”.
[3]. Delors, J., et al. (1996). Learning: The treasure within. Report to UNESCO of the International Commission on Education for the Twenty-first Century. UNESCO.
[4]. Faure, E., et al. (1972). Learning to be: The world of education today and tomorrow. UNESCO.
[5]. Fullan, M. (2011). The new meaning of educational change. Teachers College Press.
[6]. Goodyear, P., & Carvalho, L. (2014). Framing the analysis of learning network architectures. In The architecture of productive learning networks. Routledge.
[7]. Jarvis, P. (2014). From adult education to lifelong learning and beyond. In The Routledge international handbook of learning. Routledge.
[8]. OECD. (2020). PISA 2018 Results (Volume V): Effective Policies, Successful Schools. OECD Publishing.
[9]. Ragnedda, M., & Muschert, G. W. (Eds.). (2018). Theorizing the digital divide. Routledge.
[10]. Sahlberg, P. (2015). Finnish lessons 2.0: What can the world learn from educational change in Finland?. Teachers College Press.
[11]. Selwyn, N. (2019). What’s the problem with educational technology?. John Wiley & Sons.
[12]. SkillsFuture Singapore. (n.d.). About SkillsFuture. https://www.skillsfuture.gov.sg/AboutSkillsFuture
[13]. Tondeur, J., van Braak, J., Ertmer, P. A., & Ottenbreit-Leftwich, A. (2017). Understanding the relationship between teachers’ pedagogical beliefs and technology use in education: a systematic review of qualitative evidence. Educational Technology Research and Development, 65(3), 555-575.
[14]. Tran, T. T., & Nguyen, L. T. (2023). Digital divide in Vietnam’s higher education: A post-COVID-19 analysis. Education and Information Technologies, 28(1), 235-252.
[15]. UNESCO. (2019). Recommendation on Open Educational Resources (OER). UNESCO Publishing.
[16]. Van Deursen, A. J., & Van Dijk, J. A. (2019). The first-level digital divide shifts from inequalities in physical access to inequalities in material access. New Media & Society, 21(2), 354-375.
[17]. Wang, S., Wang, F., Zhu, Z., Wang, J., Tran, T., & Du, Z. (2024). Artificial intelligence in education: A systematic literature review. Expert Systems with Applications, 252, 124167. https://doi.org/10.1016/j.eswa.2024.124167
[18]. World Bank. (2023). Digital Progress and Trends Report 2023. The World Bank.